Powered By Blogger
BA TUYỆT TÁC VỀ THU CỦA CỤ NGUYỄN KHUYẾN

Mùa thu là mùa mà trong khoảng thời gian đó, phần lớn các loại cây trồng được thay nhau rụng mất lá của chúng. Nó cũng là mùa mà thời gian ban ngày ngắn dần lại và tiết trời lành lạnh hơn ( rõ nét nhất là ở ngoài Bắc VN và các nước Âu Châu). Tại các miền ôn đới như VN thì lượng mưa cũng tăng nhiều lên trong một số khu vực.
Mùa thu sang mang theo một chút gió nhẹ nhàng, một chút nắng hanh vàng, và một chút mưa... tạo nên một chút nhớ, một chút buồn, không ồn ào mà thâm trầm lặng lẽ. Mùa thu còn là mùa của thi nhân. Trong nền văn học nước ta, cụ Nguyễn Khuyến đã để lại 3 bài thơ về thu thật tuyệt vời, viết theo thể Đường Luật, thất ngôn bát cú là những thi phẩm tuyệt tác hiện còn truyền tụng cho đến ngày nay. Đó là  ba bài Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh.  

Cụ Nguyễn Khuyến (1835) là người làng Yên Đổ  (chữ Hán: 阮勸), tên thật là Nguyễn Thắng (阮勝), hiệu Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Hà Nam Ninh nay là huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Quê nội của ông ở làng Vị Hạ (Và), xã Yên Đổ nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại Yên Đổ.

Cha Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Khởi (阮宗起, 1796-1853), thường gọi là Mền Khởi, đỗ ba khóa tú tài, dạy học. Mẹ là Trần Thị Thoan (陳式湍, 1799-1874), nguyên là con của Trần Công Trạc (陳公鐲), từng đỗ tú tài thời Lê Mạc.

Thuở nhỏ, ông cùng Trần Bích San (người làng Vị Xuyên, đỗ Tam Nguyên năm 1864-1865) là bạn học ở trường Hoàng giáp Phạm Văn Nghị. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân (tức Giải nguyên) trường Hà Nội. Năm sau (1865), ông trượt thi Hội nên phẫn chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám. Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên (Hoàng giáp). Từ đó, Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ (三元閼堵).

Năm 1873, ông được bổ làm Đốc Học, rồi thăng Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa. Năm 1877, ông thăng Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Sang năm sau, ông bị giáng chức và điều về Huế, giữ một chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán. Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên Đổ vào mùa thu năm 1884 và qua đời tại đây.

Các tác phẩm của ông gồm có: Quế Sơn thi tập, Yên Đổ thi tập, Bách Liêu thi văn tập, Cẩm Ngữ,"Bạn đến chơi nhà", và 3 bài thơ hay về thu: Thu điếu, Thu ẩm và Thu vịnh cùng nhiều bài ca, hát ả đào, văn tế, câu đối truyền miệng.

Thu Điếu ( mùa thu câu cá)

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối ôm cần lâu chẳng đặng,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Nguyễn Khuyến)    

Thu Ẩm ( mùa thu uống rượu)

Năm gian nhà nhỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm khuya đóm lập lòe.
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loe.
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt,
Mắt lão không viền cũng đỏ hoe.
Rượu tiếng rằng hay, hay chẳng mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.
( Nguyễn Khuyến)

Thu Vịnh ( mùa thu ngâm thơ)

Trời thu xanh ngắt mấy từng cao,
Cần trúc lơ thơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông chừng như khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra sợ thẹn với ông Đào!
(Nguyễn Khuyến)    


THƠ VUI HOẠ THƠ CỤ NGUYỄN KHUYẾN
(thơ vui nhiều tác gỉa hoạ thơ về "THU" của cụ Nguyễn Khuyến)
Tô canh lạnh lẽo nước trong veo.
Một miếng thịt heo bé tẻo teo.
Bốn thằng to béo tranh nhau vớt.
Một đứa nhanh tay hớt cái vèo.
Thịt heo trôi nổi giờ đâu mất
Ba thằng không được mặt như heo
Tựa gối ôm thìa lâu chẳng được
Thịt đâu còn nữa dưới nước lèo.
(Sưu tầm)

Thu Lội
Nhìn xuống hồ Thu nước trong veo,
Nước mùa Thu lạnh nghĩ cũng teo.
Nhắm mắt làm liều ùm một phát,
Đạp chân thục mạng lội cái vèo.
Thân trên run rẩy người lạnh ngắt,
Phía dưới co ro nó đã teo.
Tựa gối ôm ... cần chờ ấm lại,
Sao vẫn mềm như cái bánh bèo.

(Thi s
ĩ BP Thành 9/7/14)

Mùa thu vốn là đề tài muôn thuở, từ những ngày đầu tiên của dòng nhạc tiền chiến như Con Thuyền Không Bến, Đêm Thu và Giọt Mưa Thu của nhạc sĩ Đặng Thế Phong cho tới Thu Quyến Rũ, Lá Đổ Muôn Chiều, Ánh Trăng Mùa Thu của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn hay Mùa Thu Mây Ngàn của Từ Công Phụng và Mùa Thu Chết của Phạm Duy, Chiếc Lá Thu Phai của Trịnh Công Sơn hay Em Ra Đi Mùa Thu của Phạm Trọng Cầu, Ngàn Thu Áo Tím của Hoàng Trọng. Hôm nay,  Em Ra Đi Mùa Thu.


Cụ Nguyễn Khuyến không chỉ là một “hiền tài quốc gia”, một cây đại thụ văn chương, một gương sáng về đạo đức, ông còn là một người thầy, người bạn, người chồng, người cha, là “nóc” của một gia đình tiêu biểu ở nông thôn Việt Nam xưa. Điều đó giải thích vì sao khi nhắc đến Nguyễn Khuyến, người Việt Nam cảm thấy thân thương, gần gũi như nhắc đến ông bà, cha mẹ, chú bác mình vậy. Trong số hơn 400 bài thơ chữ Nôm và chữ Hán để lại cho đời, cụ Nguyễn Khuyến đã dồn rất nhiều tài năng và tâm huyết vào các sáng tác trữ tình. Xoay quanh đề tài nông thôn, tác giả đã thể hiện thành công bức tranh thiên nhiên, con người và cuộc sống nơi đây.  Tuy cụ chỉ để lại hậu thế có 3 bài thơ nói về thu nhưng các sáng tác đó đã diển tả những nét hết sức quyến rũ của mùa thu, chiều sâu tư tưởng của cụ là một sự kết hợp hài hòa với nghệ thuật thơ sáng tạo, điêu luyện đã đưa những thi phẩm áy lên một vị thế xứng đáng trong thi đàn dân tộc

Lý Bích Thủy 15.9.2017

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét